TIN TỨC
Thông điệp của Tổng thư ký: ASEAN-6 GDP Quý 1 năm 2023 Kết quả kinh tế vĩ mô
Trong bài viết trước của tôi trên Tạp chí Sắt thép ASEAN số tháng 2 năm 2023, tôi đã nhấn mạnh rằng tất cả các nước ASEAN-6 (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) đều có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt năm 2022, bất chấp những thách thức từ cuộc chiến Ukraine, giá hàng hóa biến động, lạm phát cao và môi trường lãi suất tăng cao vào năm 2022.
Kết quả vĩ mô ASEAN-6 Q1 2023
Xét theo quý, quý 1 năm 2023 vẫn là quý tăng trưởng của tất cả các nền kinh tế ASEAN-6, mặc dù tốc độ tăng trưởng chậm hơn (trừ Malaysia và Thái Lan), chủ yếu do lãi suất tăng làm tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Kinh tế Indonesia tăng trưởng 5,0% trong quý 1 năm 2023 so với cùng kỳ năm ngoái, tương đương quý 4 năm 2022.
Tăng trưởng trong Quý 1 năm 2023 được hỗ trợ bởi mức tăng trưởng trong tiêu dùng của hộ gia đình và chính phủ, bù đắp cho sự sụt giảm trong đầu tư và xuất khẩu.
Tiêu dùng hộ gia đình (+4,6%), với sự mở cửa của nền kinh tế Tiêu dùng của chính phủ (+4,0%), đảo ngược mức giảm của quý trước. Đầu tư (+2,1%), giảm từ mức +3,3% một quý trước trong bối cảnh lãi suất cao. Tăng trưởng chủ yếu ở phương tiện vận tải (+24,1%) và máy móc & thiết bị (+4,6%)
Xuất khẩu (+11,7%), đặc biệt là dịch vụ (+60,4%), hàng hóa dầu khí (+19,1) và hàng hóa phi dầu mỏ (+8,4%). Xuất khẩu chậm lại do nhu cầu toàn cầu yếu
Nhập khẩu (+2,8%) chậm lại so với mức tăng trưởng +6,3% một quý trước, chủ yếu do nhu cầu trong nước chậm lại.
Xây dựng tăng trưởng ở mức 0,3% trong Quý 1 năm 2023, chậm hơn nhiều so với mức tăng trưởng 1,6% được ghi nhận trong Quý 4 năm 2022.
Sản xuất tăng 5,6% và sản xuất liên quan đến thép cũng mở rộng. Ngành thiết bị vận tải tăng trưởng +17,3%, tiếp theo là ngành kim loại cơ bản (+15,5%) và sau đó là máy móc & thiết bị (+1,0%). Lĩnh vực khai thác mỏ mở rộng +4,9%, dẫn đầu là mở rộng khai thác than và than non (+17,4%) và dầu khí (+1,0%). Trong khi đó, tiểu ngành khai thác quặng kim loại giảm (-16,2%) trong Quý 1 năm 23.
Xuất khẩu (+11,7%), đặc biệt là dịch vụ (+60,4%), hàng hóa dầu khí (+19,1) và hàng hóa phi dầu mỏ (+8,4%). Xuất khẩu chậm lại do nhu cầu toàn cầu yếu
Nhập khẩu (+2,8%) chậm lại so với mức tăng trưởng +6,3% một quý trước, chủ yếu do nhu cầu trong nước chậm lại.
Xây dựng tăng trưởng ở mức 0,3% trong Quý 1 năm 2023, chậm hơn nhiều so với mức tăng trưởng 1,6% được ghi nhận trong Quý 4 năm 2022.
Sản xuất tăng 5,6% và sản xuất liên quan đến thép cũng mở rộng. Ngành thiết bị vận tải tăng trưởng +17,3%, tiếp theo là ngành kim loại cơ bản (+15,5%) và sau đó là máy móc & thiết bị (+1,0%). Lĩnh vực khai thác mỏ mở rộng +4,9%, dẫn đầu là mở rộng khai thác than và than non (+17,4%) và dầu khí (+1,0%). Trong khi đó, tiểu ngành khai thác quặng kim loại giảm (-16,2%) trong Quý 1 năm 23.
Nền kinh tế Malaysia tăng trưởng 5,6% trong quý 1 năm 2023, chủ yếu do tiêu dùng và đầu tư tư nhân tăng, bất chấp tiêu dùng, xuất khẩu cũng như nhập khẩu của chính phủ đều giảm.
Tiêu dùng tư nhân chiếm ~60,5% GDP, tăng +5,9% trong Quý 1 năm 2023, trong những tháng lễ hội. Tổng vốn cố định hình thành cũng tăng +4,9% với đầu tư tư nhân tăng +4,7% trong khi đầu tư công tăng +5,7%. Lưu ý rằng đầu tư tư nhân chiếm 67,1% tổng vốn đầu tư.
Tiêu dùng của chính phủ giảm -2,2%. Cả xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm lần lượt -3,3% và -6,5%, dẫn đến nhu cầu trong và ngoài nước yếu.
Hoạt động xây dựng tăng trưởng ở mức +7,4% trong Quý 1 năm 2023. Việc mở rộng được hỗ trợ bởi tăng trưởng trong xây dựng dân dụng (+15,9%), xây dựng phi nhà ở (+ 6,4%) và xây dựng chuyên dụng (+6,4%). Hoạt động xây dựng nhà ở giảm 3,4%.
Sản xuất tăng trưởng với tốc độ chậm hơn +3,2% trong Quý 1 năm 2023 so với mức tăng trưởng +3,9% trong quý trước. Các ngành sản xuất liên quan đến ngành thép ngày càng mở rộng. Cụm phương tiện cơ giới và thiết bị vận tải tăng trưởng +8,3%, tiếp theo là cụm kim loại sản xuất (+4,4%), thiết bị điện (+2,0%) và kim loại cơ bản (+4,4%), thiết bị điện (+2,0%), và kim loại cơ bản (+4,4%). +1,6%) và cụm máy móc thiết bị (+1,1%).
Lĩnh vực khai thác mỏ mở rộng +2,4% trên tất cả các lĩnh vực khai thác và khai thác đá, với các dịch vụ hỗ trợ và khai thác đá khác tăng trưởng ở mức +7,3%, tiếp theo là khai thác dầu thô và khí ngưng tụ ở mức +4,0%.
Nền kinh tế Philippines tăng trưởng +6,4% trong Quý 1 năm 2023, chậm hơn một chút so với mức tăng trưởng +7,1% trong Quý 4 năm 2022. Tăng trưởng chủ yếu được thúc đẩy bởi:
Tiêu dùng hộ gia đình tăng +6,3%, mức tăng chậm nhất kể từ Quý 1 năm 2021; Tiêu dùng hộ gia đình chiếm hơn 75% GDP.
Tiêu dùng của chính phủ (+6,2%)
Đầu tư (+5,9%). Hầu hết tăng trưởng đầu tư đến từ việc mở rộng đầu tư vào tòa nhà (+14,3%) và thiết bị lâu bền (+7,2%); những khoản này chiếm hơn 85% tổng đầu tư hoặc ~ 20% GDP
Xuất khẩu tăng trưởng với tốc độ chậm hơn +0,4%, giảm so với mức 14,6% trong quý trước, chủ yếu do nhu cầu xuất khẩu bên ngoài yếu (-15,3%).
Nhập khẩu cũng giảm xuống +4,2%, từ mức +7,0% một quý trước, do nhu cầu nhập khẩu trong nước yếu (+0,3%). Lưu ý rằng nhập khẩu hàng hóa chiếm khoảng 79% tổng lượng nhập khẩu
Về mặt công nghiệp, tất cả các thành phần kinh tế đều được mở rộng, ngoại trừ khai thác mỏ. Lĩnh vực xây dựng tăng trưởng +10,8% trong Quý 1 năm 2023, tăng tốc từ mức +6,3% trong quý trước. Phần lớn tăng trưởng giá trị gia tăng trong xây dựng đến từ các doanh nghiệp (+20,6%), tiếp theo là hộ gia đình (+13,3%) và chính phủ (+4,7%).
Lĩnh vực sản xuất tăng trưởng +2,0% trong Quý 1 năm 2023, chậm lại so với quý trước. Cụm thiết bị giao thông mở rộng +21,8%, tiếp theo là thiết bị điện (+6,9%) và kim loại cơ bản (+6,8%). Cụm máy móc thiết bị giảm
-13,9%, trong khi cụm sản phẩm kim loại chế tạo giảm -5,8%.
Lĩnh vực khai thác giảm -2,2% trong Quý 1 năm 2023, dẫn đầu là sự sụt giảm lớn ở cụm dầu khí (-28,6%), tiếp theo là khai thác than (-9,6%). Khai thác cụm quặng niken mở rộng +12,3%, tiếp theo là khai thác đá và khai thác khác (+6,7%) và vàng và kim loại quý (+4,5%).
Kinh tế Singapore tăng trưởng +0,4% trong Quý 1 năm 2023, chậm hơn mức tăng trưởng +2,1% trong Quý 4 năm 2022. Tất cả các ngành đều tăng trưởng trong quý, ngoại trừ sản xuất, thương mại bán buôn và tài chính & bảo hiểm.
Ngành xây dựng tăng trưởng 7,2% trong quý 1 năm 2023, chậm hơn mức tăng trưởng 10,0% của quý trước. Tăng trưởng đến từ việc mở rộng các công trình xây dựng ở cả khu vực tư nhân và công cộng.
Các khoản thanh toán theo tiến độ được chứng nhận đã tăng 17,7%, sau mức tăng 16,8% trong quý trước. Các khoản thanh toán tiến độ được chứng nhận cao hơn đến từ:
Công trình xây dựng khu vực công (+9,5%), chủ yếu được thúc đẩy bởi sản lượng cao hơn ở các tổ chức công và các tòa nhà khác (+26,5%) và công trình dân dụng (+6,9%)
Xây dựng khu vực tư nhân (+16,5%), dẫn đầu là mở rộng xây dựng thương mại tư nhân (+56,6%) và công nghiệp (12,8%)
Nhu cầu xây dựng (trao hợp đồng) giảm -23,8% so với cùng kỳ trong Quý 1 năm 2023, đảo ngược mức tăng trưởng 8,1% trong quý trước do:
Nhu cầu xây dựng của khu vực công thấp hơn (-25,2%), dẫn đến số lượng hợp đồng được trao cho các công trình xây dựng dân dụng công cộng (-57,7%) và công nghiệp (-97,3%) giảm
Nhu cầu đối với các công trình tư nhân thấp hơn (-21,0%), do các hợp đồng được trao cho khu vực công nghiệp tư nhân (-86,2%) và tổ chức & khác (-69, 2%) giảm
Khu vực sản xuất giảm -5,6% trong Quý 1 năm 2023, kéo dài mức giảm -2,6% trong Quý 4 năm 2022. Sự sụt giảm chủ yếu là do sản lượng ở tất cả các cụm ngoại trừ cụm giao thông vận tải của cụm kỹ thuật đều giảm. Sản lượng của cụm kỹ thuật vận tải tăng +17,7%, được hỗ trợ bởi việc mở rộng ở:
Phân khúc kỹ thuật hàng hải và ngoài khơi (+40,0%) do có nhiều hoạt động hơn trong các nhà máy đóng tàu cũng như sản xuất thiết bị mỏ dầu khí.
Phân khúc hàng không vũ trụ (+16,1%) được thúc đẩy bởi nhu cầu bảo trì, sửa chữa và đại tu từ các hãng hàng không thương mại do lưu lượng hàng không toàn cầu tăng lên.
GDP của Thái Lan đã tăng +2,7% so với cùng kỳ trong quý đầu tiên của năm 2023, tăng từ mức +1,4% một năm trước.
Tiêu dùng tư nhân tăng +5,4% trong Quý 1 năm 2023, tiếp tục tăng từ +5,6% trong quý trước, nhờ sự phục hồi của ngành du lịch và sự phục hồi trong chi tiêu cho hàng hóa lâu bền. Các lĩnh vực chi tiêu cao hơn là nhà hàng & khách sạn (+108,1%), giải trí & văn hóa (+9,8%), vận tải (+4,9%), quần áo & giày dép (+4,5%).
Tiêu dùng của chính phủ giảm -6,2%, kéo dài mức giảm -7,1% của quý trước do bất ổn chính trị từ cuộc bầu cử sắp tới.
Đầu tư cố định tiếp tục tăng +3,1%, sau mức tăng trưởng +3,9% trong quý trước, dẫn đầu là đầu tư xây dựng công cộng (+5,8%), máy móc thiết bị (+2,6%), đầu tư xây dựng tư nhân (+1,1%).
Xuất khẩu tăng trưởng +3,0% trong Quý 1 năm 2023, nhờ xuất khẩu dịch vụ. Xuất khẩu hàng hóa giảm -6,4%. Nhập khẩu giảm -1,0%, tiếp tục mức giảm -4,8% của quý trước, chủ yếu do nhập khẩu hàng hóa giảm (-3,3%). Nhập khẩu dịch vụ tăng +8,9%.
Về phía ngành, ngành xây dựng tăng trưởng +3,9%, tiếp tục mở rộng từ mức tăng trưởng +2,6% so với quý trước.
Xây dựng công cộng mở rộng +5,8%, sau mức tăng trưởng +3,3% trong Quý 4 năm 2022, chủ yếu do xây dựng của chính phủ (cầu và đường), tăng +8,3%, tăng tốc từ +0,1% một năm trước. Trong khi đó, hoạt động xây dựng của các doanh nghiệp nhà nước chậm lại ở mức +1,3%), giảm tốc đáng kể từ mức +11,5% trong Quý 4 năm 2022. Các dự án doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động bao gồm công trình xây dựng đang diễn ra tại dự án đường cao tốc của Cơ quan Đường cao tốc Thái Lan (EXAT), Điện lực tỉnh Cơ quan quản lý (PEA) hệ thống phân phối dự án nhà máy điện, dự án thăm dò khoáng sản của Công ty TNHH Khai thác và Sản xuất PTT (PTTEP) và các dự án xây dựng khác do Công ty TNHH Sân bay Thái Lan (AOT) thi công.
Xây dựng tư nhân chậm lại ở mức +1,1%, chủ yếu là do hoạt động xây dựng nhà ở chậm lại. Ngoài ra, xây dựng phi nhà ở cũng giảm -5,3% ở một số hạng mục, bao gồm nhà máy công nghiệp (-17,4%), công trình thương mại (-2,9%).
Lĩnh vực sản xuất giảm -3,1%, tiếp tục giảm -5,0% trong quý trước, chủ yếu do nhu cầu bên ngoài yếu.
Công nghiệp nhẹ giảm -5,0%, từ mức giảm -2,5% trong Quý 4 năm 2022, do sản xuất lương thực giảm; thuốc lá; tài liệu; mặc quần áo; gỗ và sản phẩm gỗ; Nội địa; và đồ trang sức
Lĩnh vực nguyên liệu thô giảm -1,8%, cải thiện từ mức giảm -7,3% trong Quý 4 năm 2022, dẫn đầu là do sản lượng nhiều sản phẩm công nghiệp bao gồm kim loại cơ bản và các sản phẩm khác giảm. sản phẩm kim loại chế tạo.
Lĩnh vực vốn và công nghệ giảm -2,5%, so với mức giảm -4,4% trong Quý 4 năm 2022, do sản xuất máy tính và sản phẩm điện tử, thiết bị điện và máy móc tiếp tục giảm, chủ yếu do nhu cầu bên ngoài. Ngược lại, sản xuất ô tô, rơ moóc, sơ mi rơ moóc và các thiết bị vận tải khác mở rộng trong Quý 1 năm 2023
Lĩnh vực khai thác giảm ở mức -2,4%, kéo dài mức giảm -6,9% trong Quý 4 năm 2022, chủ yếu do sản lượng dầu thô và khí tự nhiên giảm.
Kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng kể từ Quý 4 năm 2021 và đạt đỉnh +13,7% vào Quý 3 năm 2022. Kể từ đó, nền kinh tế đã giảm tốc.
GDP của Việt Nam tăng trưởng +3,3% so với cùng kỳ trong Quý 1 năm 2023, giảm tốc từ mức tăng trưởng +5,9% trong Quý 4 năm 2022.
Hoạt động xây dựng tăng +2,0% trong Quý 1 năm 2023, chậm hơn so với mức 6,7% của cùng kỳ Quý 4 năm 2022. Ngành xây dựng tăng trưởng 6 quý liên tiếp, sau khi giảm 10,1% trong Quý 3 năm 2021.
Nguồn tham khảo: Theo Seaisi.
Ban thấy bài viết này thế nào?
Kém * Bình thường ** Hứa hẹn *** Tốt **** Rất tốt *****